"Tướng về hưu" Nguyễn Huy Thiệp qua đời ở tuổi 71 sau thời gian tai biến hôm 20/3. Những tháng cuối đời, trên giường bệnh, ông viết thơ , vẽ tranh cho khuây khỏa, lạc quan sẽ sớm hồi phục.
Truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp là một truyện hay có thể gọi là đặc sắc, nói lên được trạng thái u uất nặng nề, tha hóa của đời sống hiện tại, là đáng khen. Nhưng đi quá đến mức phỉ báng lịch sử dân tộc, anh hùng dân tộc thì không chấp nhận
Tóm tắt Tướng về hưu ( Nguyễn Huy Thiệp) HOC24. Lớp học. Lớp học. Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Hỏi đáp Đề thi Video bài giảng Khóa học Tin tức Cuộc thi vui
Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp (12/01/11) Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt - Nguyễn Huy Thiệp (12/01/11) Về trang trước. Về đầu trang. Bản để in. Bản quyền thuộc về Nguyễn Xuân Diện.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tác giả "Tướng về hưu" đã qua đời vào 16 giờ 30 ngày 20-3. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp bị tai biến từ đầu năm 2020. Ông đã rất kiên trì luyện tập để cố gắng phục hồi sức khoẻ nhưng sức cùng, lực kiệt nên ông đã ra đi.
Fast Money. Ngày đăng 04/04/2021, 1521 Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo cho dư luận một cú sốc tinh thần cực lớn. Câu chuyện kể về một ông tướng quân đội, cả cuộc đời mình ông cống hiến cho dân cho nước nay đến tuổi về hưu ông trở về sống trong ngôi nhà nơi có người vợ thân yêu và gia đình cậu con trai duy nhất. Cuộc sống thời bình không phuc hợp với một ông tướng lừng lẫy chiễn ông thời chiến. Ông Tướng Thuấn tự thấy mình lạc lõng giữa thời đại mới, giữa gia đinh, làng mạc. Cuộc sống thay đổi quá nhiều. Tưởng như sau những giây phút cầm súng chiến đấu để giành lấy những điều tốt đẹp cho tương lai, con người sẽ được thảnh thơi vui cười, nhưng không cuộc sống là vậy nó biến thiên theo chiều vận động của xã hội “Tướng hưu” tâm thức Hậu đại Nguyễn Huy Thiệp Ngay từ cất tiếng khóc chào đời “Tướng hưu” Nguyễn Huy Thiệp tạo cho dư luận cú sốc tinh thần cực lớn Câu chuyện kể ông tướng quân đội, đời ơng cống hiến cho dân cho nước đến tuổi hưu ông trở sống ngơi nhà nơi có người vợ thân u gia đình cậu trai Cuộc sống thời bình không phuc hợp với ông tướng lừng lẫy chiễn ơng thời chiến Ơng Tướng Thuấn tự thấy lạc lõng thời đại mới, gia đinh, làng mạc Cuộc sống thay đổi nhiều Tưởng sau giây phút cầm súng chiến đấu để giành lấy điều tốt đẹp cho tương lai, người thảnh thơi vui cười, không sống biến thiên theo chiều vận động xã hội đánh giá nhận định Kể từ xuất hiện, Tướng hưu gây tiếng vang lớn, không nội dung câu chuyện nghệ thuật xây dựng tác phẩm nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thành công sử dụng lối kể chuyện giản dị, phong cách thể truyện ngắn giống cách bố cục họa sỹ tài ba, xếp đặt mảng, khối khác bên cạnh theo trật tự định Những đoạn ông miêu tả kể lại câu chuyện thật ngắn gọn, tiết kiệm từ đến mức tối đa, lại ngôn ngữ chặt lọc tạo nên lực hấp dẫn làm người đọc vừa say mê vừa choáng váng Kết cấu truyện ngắn Tướng hưu kết cấu xâu chuỗi, mảng khối liên kết với tạo nên thứ phản ứng dây chuyền khắc sâu vào tâm thức người đọc - Dư âm tượng Nguyễn Huy Thiệp - Văn Chinh "Vào khoảng năm 1988, Nguyễn Huy Thiệp in Chút thoáng Xuân Hương, Huyền thoại phố phường sau truyện lột truồng người với tên ngớ nga ngớ ngẩn Muối rừng Người ta thi nói tượng Nguyễn Huy Thiệp, anh in Tướng hưu, Nguyễn Khải kêu lên “Nó viết đến cịn để viết đây?” " - Đọc lại “Tướng hưu” - Đặng Văn Sinh Tướng hưu lần đầu in tuần báo Văn Nghệ số 20 /6/1987 Hội Nhà văn Việt Nam Nó trở thành tượng văn học nhà xuất Trẻ tuyển chọn in tập truyện ngắn với tựa đề Tướng hưu Nhà xuất Văn hoá, năm 1989 cho tập gồm 11 truyện lấy tên Những gió Hua Tát Tuy xuất Tướng hưu xem truyện ngắn đỉnh cao nghiệp sáng tác Nguyễn Huy Thiệp Nó góp phần định hình phong cách anh mà mở thời kỳ cho văn học Việt Nam, đoạn tuyệt với khứ, viết " lời điếu cho thời văn nghệ minh hoạ" Nguyễn Minh Châu, đưa văn chương trở với chất Vì tác phẩm có tính cách khai phá, lại hàm chứa nhiều kiện thông tin mối tương quan đa chiều với số lịch sử, nên, cho dù hai mươi năm trơi qua, đến nay, đọc lại cịn nhiều vấn đề cần phải bàn Có thể nói, Tướng hưu mang dung lượng tiểu thuyết tác giả "nén" lại 20 trang nên khiến tiềm tàng nội lực có khả cơng phá trái bom nghệ thuật, mang đến cho người đọc nhận thức khơng giống nhau, chí trái ngược Một vài nhà phê bình cịn cho Nguyễn Huy Thiệp chơi trò phù thủy Anh thả "âm binh" vào dịng chữ, "âm binh" giúp ông thầy cao tay ấn "sục tung bùn lên, thành bướm hoa " Lời ơng Tân Dân Giọt máu Khơng cịn nghi ngờ nữa, Tướng hưu tác phẩm văn học mang tầm tư tưởng thời đại Đây chuyện làng văn kể từ sau năm 1945, chục năm trước đó, văn đàn, cơng chúng đọc tác phẩm làng nhàng, vụn vặt, cho dù có tiểu thuyết dày đến vài ngàn trang, chủ yếu thứ văn chương minh hoạ cách thô thiển, sống sượng loại vô thưởng vô phạt mang đậm chất thù tạc lúc trà dư tửu hậu mà vắng bóng khám phá có tầm cỡ nhân loại " dấu hiệu hậu đại độ nội dung Với cách kể ngắn gọn, khách quan đến mức dửng dưng, Nguyễn Huy Thiệp dẫn độc giả vào mê cung kiện Ở đây, độc giả phải tự chắp nối, xâu chuỗi chi tiết, tình lại với tự tìm tầng nghĩa tư tưởng Tuy nhiên, người có cách đọc hiểu khác hàm ý tư tưởng tác giả hiểu theo nhiều nghĩa Ở đây, tác giả không biể đạt tơn thờ hình tượng Mỗi nhân vật có đời sống riêng Ơng Thuấn sau bao năm lăn lộn chiến trường trở với hàm thiếu tướng lại trở thành người thừa gia đình Có thể thời chiến ơng Thuấn anh hùng thời bình ơng lại trở thành gánh nặng cho gia đình xã hội Dĩ nhiên chết ngồi trận mạc tính tất yếu Như vậy, hình tượng ơng tướng tác giả xây dựng khơng rõ ràng ý niệm Ơng Thuấn lên người thời đại Nếu cứu xét thế, ta áp lên nhân vật Thủy – dâu ông Thuấn Thủy bác sĩ sản, chuyên nạo phá thai đem thai nhi ni chó béc-giê Về mặt đạo đức nhân vật người vơ nhân tính Nhưng xét mặt xã hội, người nắm bắt xu hướng thời đại Điều thể qua việc làm ăn kinh tế Các nhân vật khác vậy, không thấy có nhân vật đẩy lên để trở thành điển hình cho tác phẩm Tính ko xác định, tơn thờ tính ko rõ ràng, sai lệch, bóng gió, tình trạng mê cung nghĩa, chập chờn nghĩa… xuất đồng loạt nhân vật mà tác giả nhọc công xây dựng độ Tiên đề Như nói trên, nhân vật “Tướng hưu” dù có mối quan hệ khăng khít với giữ tính độc lập suy nghãi tình cách Ở người, cặp đối lập ln tồn Khơng có nhân vật THIỆN hẳn khơng có nhân vật ÁC hẳn Tác giả muốn nhấn đến mục đích, tức người dù có tốt đến ln có xấu Như nhân vật ơng Bổng chẳng hạn, ln tìm cách để thu lợi chuyệ gia đinh nhiệt tình Nhân vật Thủy nhận định rằng “Lão tốt nghèo” Không người hồn hảo, anh có mặt mặt Ở nơi vào thời đểm anh người đáng yêu thời điểm khác anh người đáng ghét Nguyễn Huy Thiệp thực thàh công xây dựng nhân vật giống với người thực không giả dỗi, không che đậy rõ ràng tường tận Cũng phải nói thêm rằng, dù truyện tương đối dài mật độ chi tiết dày đặc Nhưng tác giả khéo léo lồng ghép chi tiết, kiện, tình huống, câu chuyện với qua cách diễn đạt ngắn gọn, khẩn chương Cùng với giọng văn tưng tửng đôi chỗ cố tình diễn đạt vụng, tác giả lắp ghép mảng tranh đời lại để tạo nên tranh thời đại hoàn hảo Nhưng qảu thật với cách viết với lối đọc truyền thống dễ dàng tiếp nhận độ Kết cấu Trong truyện ngắn này, Thiệp sử dụng kết cấu lạ, đánh số La Mã cho đoạn chuyện Đây kiểu giả kiến tạo hình thức tiểu thuyết, có lẽ tác giả muốn truyền đạt thông điệp rằng, tiểu thuyết phép đánh số chương Nhưng thích chia đoạn, đánh số tiểu thuyết Bởi cần phải phù hợp, khơng trở thành cập cỡm giống kiểu “ĐỔI MỚI GIỐNG Y NHƯ CŨ” Tính phân mảnh lắp ghép thể rõ qua hình thức biểu đạt tác phẩm Ở đoạn có hàm chứa nội dung khác Nếu tách đoạn số riêng, người đọc hiểu nội dung đoạn Tuy độc lập nội dung vậy, đoạn lại sâu chuỗi số LA MÃ Đây trò chơi mà Thiệp khéo léo lồng ghép vàa câu chuyện kể giúp tư tưởng chôn sâu xuống tầng nghĩa thứ hai, có người đọc chăm chỉ, cần cù tìm tầng nghĩa ngun Tính phân mảnh nguyên tắc lắp ghép vỏ, kết hợp kết hợp, sử dụng vật ko theo chức năng, tính ko tương thích, phá hủy tỉ lệ, bất hài hòa, thắng lợi nguyên tắc giả kiến tạo đưa Nguyễn Huy Thiệp tiến sát tơi nghệ thuật đặt Hậu Hiện Đại độ Thể loại Đọc từ lúc mở đầu tơi kết thúc, người đọc ban đầu nhầm lẫn nhật ký hay hồi ký gia đình anh kỹ sư Phải đọc thật kỹ, ta nhận kiểu viết cao tay Nguyễn Huy Thiệp Cách viết câu văn phù hợp với tính cách anh kỹ sư Câu văn vừa ngắn rõ ý không chau chuốt, tài tình Nguyễn Huy Thiệp năm chỗ Khơng phải người viết viết hóa thân vào nhân vật Thiệp Đơi khi, điểm nhìn tác giả lại khơng đặt điểm nhìn nhân vật mà lại đặt điểm nhìn nhà văn Nhà văn viết chau chuốt kỹ sư phải viết ngắn dơi chỗ phải vụng diễn đạt Với kiểu viết tưng tửng giống hệt giọng văn anh kỹ sư vật lý Tác giả thực thành công từ cách chọn điểm nhìn Vì truyện ngắn viết cách linh hoạt hóa Cả câu chuyện rõ ràng Nhiều độc giả đọc truyện mà quên vai trò người kể chuyện tên Thuần Anh người trí thức có học nên suy nghĩ chín chắn Là kỹ sư vật lý, nhân vật người kể chuyện lột tả chân thực vật tượng đưa quy luật khách quan Chính thế, dịng nhật ký đánh số LA MÃ Thuần nhiên có sức sống mãnh liệt, cựa quậy hét lên mọt tiếng cực lớn Trong văn tác phẩm ta thấy, có nhiều chỗ tác giả bê nguyên đoạn thư viết tay hay môt đoạn điện báo Như thể loại nhật ký, hồi ký sử dụng xuyên suốt tác phẩm, tác giả đưa thể laoij chân thực khác vào tác phẩm độ nhân vật – người – tác giả Với việc xây dựng tâm lý nhân vật chìm qua lời nói hành động, tác giả lloi kéo người đọc vào giới bi quan Một thực xã hội khơng đơn có tốt riêng rẽ với xấu Con người buộc phải sống chung với xấu lẫn tốt Nhân vật tốt xấu không xây dựng rõ ràng mà có tầng mơ hồ nằm Một xã hội đầy tràn bi quan Từ chuyện trinh tiết đàn bà nhục thằng đàn ông, “Tao khơng biết mày có chửa" Vợ tơi bảo "Chuyện thường Bây làm cịn có trinh nữ Con làm bệnh viện sản, biết" Kim Chi ngượng Tơi bảo "Đừng nói thế, mà làm trinh nữ mệt thật" Kim Chi khóc "Anh ơi, đàn bà chúng em nhục Đẻ gái em nát ruột nát gan" Vợ bảo "Tôi cịn hai gái cơ" Tơi bảo "Thế người tưởng làm đàn ơng khơng nhục à?" Cha tơi bảo "Đàn ơng thằng có tâm nhục Tâm lớn, nhục".” Hay xã hội tràn ngâp thói dung tục, lý tưởng cao siêu bị dẫm đạp, bóp nghẹt chết tức tưởi Một ơng tướng ngang dọc thời chiến lại chết lúc tập trận thời bình Cái lý tưởng bị thả trơi khiến người đọc gấp trang sach lại mà bị ám ảnh Không phải thời chiến người chết ngả mà tưởng thời bình, người se sống hạn phúc Nhưng lúc ấy, khủng hoảng lại lên đến bậc Hình ảnh thai nhi đựng phích đá đem vè nấu cho chó cho lợn Và xã hội chọc, kệch cỡm khắc họa rõ ràng qua đám cưới Tuân Kim Chi Một xã hội bắt đầu biết dựa dẫm, nhờ vả để lên qua chi tiết thư mà ông Tướng Thuấn viết cho đồng đội nhận người thân quen Trình bày người theo người bi quan nhân đại học, lấn át bi thảm lý tưởng Sự thắng lợi nguyên lý phi lý thực đẩy tác phẩm bay vào vùng trời thật phơi bày độ thẩm mỹ Tính phản thẩm mĩ đc nhấn mạnh qua dòng viết dòng ký ức vụn vặt thực gây sốc, gây chống Qua đó, tác phẩm “Tướng hưu” hiển thị tính bạo người, xã hội Một nhìn khắc nghiệt đời giai đoạn chuyển giao Cả câu chuyện mang đậm tính chất bất bình thường lại trở thành bình thường Sau chết ơng Thuấn chuyện gia đình lại trở cũ Sự xuất ơng Thuấn thời bình khơng có giá trị hay hiệu lực cho sống Trở thời bình, ơng Tướng Thuấn thực trở thành người có khơng thừa mà khơng có chẳng thiếu Sự tồn ông vào thời điểm lịch sử không đem lại ảnh hưởng cho người xung quanh Truyện ngắn “Tướng hưu” thực chống lại hình thức cổ điển đẹp, quan niệm truyền thống hài hòa cân xứng Khơng có người hồn tịn tốt, khơng có người hồn tồn xấu Cái tốt xấu tồn cá vị, tốt hay xấu biểu bên gặp hoàn cảnh thuận lợi độ nguyên tắc thủ pháp nghệ thuật Với truyện ngắn này, Nguyễn Huy Thiệp chiếm cảm tình người người đọc nguyên tác viết thể nghiệm qua thủ pháp nghệ thuật giễu nhại sâu sắc Có lẽ tư tưởng mẻ khó chấp nhận mà Thiệp nhận ủng hộ mạnh mẽ phản đối liệt Chính bàn cãi xung quanh truyện “Tướng hưu” Thiệp tạo thành sóng có văn học đương đại Có nhà Mỹ học cho rằng, Thiệp dùng phép “nói ngược” hay “lộn trái huân chương” Có thể đánh giá mang hướng phản biện tiêu cực thục tế, tác phẩm Thiệp làm người ta phải suy nghĩ cách viết cách đọc Trước người ta thường đọc viết theo chiều thuận nên lâu ngày trở thành thói quen xấu Sự giễu cợt, khẳng định tính đa nguyên giới người miêu tả rõ Số phận người hoàn toàn khác nhau, không giống không thời giống thời Đó chân lý bị phủ nhịa qua thời đại văn học phải đạo hay văn chương minh họa Sự từ bỏ tính bắt trước ngun lý tạo hình, phá vỡ hệ thống kí hiệu tìm thấy qua việc đánh số LA MÃ cho đoạn truyện Cách đánh số này, nhiều bút ưa dùng truyện ngắn Người ta cung thay đổi cách nghĩ từ trước, có tiểu thuyết đánh số Truyện ngắn thiên việc lắp ghép kiện tình hồn tồn vắng bóng bề sâu tâm lí nhân vật đẩy tốc độ truyện lên cao làm cho người đọc “hoa mắt, chóng mặt” chí “giảm trí nhớ” đương nhiên phải đọc đọc lại nhiều lần hiểu sơ sơ Với giọng văn tưng tửng vậy, tác giả đa bày cho độc giả thực đơn thịnh soạn khơng có khai vị, hay phục Độc giả phải tự vào bếp nấu lấy thích Nhờ thế, tư tưởng tác giả giấu kín đưa độc giả vào trò chơi hư cấu giá trị cịn lại Nguyễn Huy Thiệp đốt nóng văn đàn sau đổi truyện ngắn “ghê gớm” Như phản ứng với văn chương kinh viện nhào nặn trước đó, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lời tuyên chiến với đạo mạo giả trang đời Với truyện ngắn Tướng hưu mắt độc giả báo Văn nghệ năm 1987, Nguyễn Huy Thiệp thu hút ánh nhìn trường quan tâm cơng chúng văn học Trên âm hưởng Shock Tướng hưu, Nguyễn Huy Thiệp lại tiếp tục tung ra Muối rừng, Chảy sông ơi, Con gái thủy thần, Chút thoáng Xuân Hương, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết… làm sửng sốt văn đàn Ông “càng viết dư luận mạnh, truyện chưa người đọc kháo nhau, truyện đăng tranh tìm đọc, đọc tranh bình phẩm, bàn tán, chốn phịng văn chốn vỉa hè kháo chuyện… Văn đàn thời đổi khởi sắc khởi sắc hẳn.” Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Ngun sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn hố - Thơng tin, Hà Nội, 2001 Xuất buộc người ta phải nhắc đến mình, tìm mình, Nguyễn Huy Thiệp phải có sức hấp dẫn, lơi đó? Ở khía cạnh này, Đỗ Ngọc n cho rằng "Cái cuả Nguyễn Huy Thiệp chỗ anh phát quần áo Hoàng đế, mà điều quan trọng anh biết cho Hoàng đế cần phải mặc quần áo vào lúc Sự sịng phẳng có ý nghĩa nhân đó, thơi, đủ để anh xứng đáng số người đứng đầu bảng văn xuôi Việt Nam đương đại" Cái văn chương - Đỗ Ngọc Yên, Văn chương - truy tìm, NXB Quân đội Nhân dân, 2006 Cảm quan hậu đại, xét phương diện chung nhất, Còn, thực tiễn sáng tác nghệ sĩ, biểu cảm quan lại có nét đặc thù Chẳng hạn như, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp tứ truyện bao trùm vô nghĩa trớ trêu đời, bê tha nhếch nhác thảm hại người, bơ vơ lạc loài đẹp, bóng dáng chủ nghĩa hư vơ Tướng hưu, Khơng có vua, Con gái thuỷ thần, Muối rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết Ở tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp tồn tâm thức Hậu đại 10 ..."Vào khoảng năm 1988, Nguyễn Huy Thiệp in Chút thoáng Xuân Hương, Huy? ??n thoại phố phường sau truyện lột truồng người với tên ngớ nga ngớ ngẩn Muối rừng Người ta thi nói tượng Nguyễn Huy Thiệp, ... Nguyễn Huy Thiệp Cách viết câu văn phù hợp với tính cách anh kỹ sư Câu văn vừa ngắn rõ ý không chau chuốt, tài tình Nguyễn Huy Thiệp năm chỗ Khơng phải người viết viết hóa thân vào nhân vật Thiệp. .. Tướng hưu, Khơng có vua, Con gái thuỷ thần, Muối rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết Ở tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp tồn tâm thức Hậu đại 10 - Xem thêm -Xem thêm “Tướng về hưu” và tâm thức Hậu hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp,
Truyện ngắn Tướng về hưu lần đầu được in trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 là một trong những tác phẩm tiêu biểu khẳng định nghệ thuật đỉnh cao về truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và cũng đã được chuyển thể kịch bản dựng thành phim. Theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, Tao Đàn xin trân trọng giới thiệu lại Tướng về hưu để thưởng thức một tác phẩm giá trị và tưởng nhớ nhà văn lớn vừa ra đi. I Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình. Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà. Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần. Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh. Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo. Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ thạo việc xây doanh trại. Năm bảy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng. Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn bà hơn cha tôi sáu tuổi, vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng. Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông bảo “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi!” Tôi bảo “Vâng”. Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình. II Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi ba mươi bảy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ. Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo “Cháu chẳng ăn thế bao giờ”. Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng. III Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình. Cha tôi bảo “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo “Không!”. Vợ tôi bảo “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo “Để xem đã!” Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười “Cha bình quân! ” Cha tôi bảo “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ. Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo “Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào. Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi “Có chuyện gì thế?” Ông bảo “ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”. Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ “Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậ u “. Cha viết như thế được không?”. Tôi bảo “Được”. Vợ tôi bảo “Không được!”. Cha tôi gãi cằm “Người ta nhờ mình”. Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ Quốc phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái. Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con. IV Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là “hoa nhài cắm bãi cứt trâu”. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!”. Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược. Ông Bổng rất ức, ông nói “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là “môn đăng hộ đối”. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì”. Cha tôi bằng lòng. Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comple đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp Ừ… ê… cái con gà quay Ta đi lang thang khắp miền giang hồ Tìm nơi nào có tiền Tiền ơi, mau vào túi ta Ừ… ê… cái con gà rù… Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinet đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng những ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc Beatles và Abba. Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt. Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì, cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ. V Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo “Cha muốn nói chuyện với con”. Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi “Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn”. Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi di vào nói với ông Cơ “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!” ông Cơ bảo “Cháu quên, cháu xin lỗi mợ”. Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn”. Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo “Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây”. Tôi hỏi “Về đâu?” Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe taxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một ngày. Ông này vừa đi công tác ở ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao. VI Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ chồng tôi “Cháu xin cậu mợ một việc”. Vợ tôi hỏi “Việc gì?” ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt. “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Vợ tôi cắt lời “Thế bao giờ đi?” ông Cơ gãi đầu “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết”. Vợ tôi tính “Được. Anh Thuần này Thuần là tên tôi, anh có nghỉ phép được không?” Tôi bảo “Được”. Ông Cơ bảo “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như đi du lịch”. Vợ tôi bảo “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?” ông Cơ bảo “Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu”. Vợ tôi hỏi “Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?” ông Cơ bảo “Cháu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là năm”. Vợ tôi bảo “Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi được”. Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu “Chị Lài xinh nhất”. Cô Lài cười thỏn thẻn “Chả phải. Mợ mới xinh nhất”. Vợ tôi bảo “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu xe”. Cha tôi bảo “Hay thôi không đi?” ông Cơ giãy nảy “Chết, cháu đã điện rồi Mang tiếng chết”. Cha tôi thở dài “Tôi có tiếng gì mà mang?”. VII Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào sáng chủ nhật. Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch”, vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi. Thủy bảo “Mẹ già rồi”. Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ ra. Hôm thứ bảy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn. Ăn được cơm. Tôi bảo “Mừng rồi”. Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc. Tôi hỏi “Chuẩn bị à?” Vợ tôi bảo “Không”. Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ”. Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo “Tùy anh”. Ông Bổng sang thăm. Ông nói “Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!”. Lại hỏi “Chị ơi, chị có nhận ra em không?”. Mẹ tôi bảo “Có”. Lại hỏi “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi. VIII Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất. Ông Cơ và cô Lài nói “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất”. Vợ tôi bảo “Nói nhảm”. Cô Lài khóc “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?”. Ông Bổng cười “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván”. Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?”, ông Bổng bảo “Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, “đòm” phát là sướng”. Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc quát “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?”, ông Bổng hỏi “Ván mấy phân?” Tôi bảo “Bốn phân”. Ông Bổng bảo “Mất mẹ bộ xa lông Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn. Ông Bổng bảo “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi “Mấy cân gạo hả chú?”. Ông Bổng bảo “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân”! Vợ tôi bảo tôi “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”. Ông Bổng hỏi tôi “Nhà này ai chủ trì kinh tế?”. Tôi bảo “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo “Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế”. Tôi bảo “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo “Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé”. Tôi bảo “Ông để con”. Ông Bổng bảo “Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?”. Tôi bảo “Mười mâm”. Ông Bổng bảo “Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm”. Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo “Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm”. Tôi bảo “Ông Bổng cầm bốn nghìn rồi”. Vợ tôi bảo “Buồn anh lắm”. Tôi bảo “Anh đòi lại nhé”. Vợ tôi bảo “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo”. Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo “Để đi đò”. Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc”. Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi “Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó”. Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi. Cái Mi hỏi “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?”. Cái Vi bảo “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố”. Tôi khóc “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín”. Cái Vi bảo “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa. IX Từ nhà tôi ra nghĩa địa đi tắt chỉ năm trăm mét nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói “Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối”. Ông Bổng bảo “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm”. Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ, “cha đưa mẹ đón”. Ông Bổng bảo “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó”. Cha tôi bảo “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?”. Ông Bổng nín bặt, lại khóc “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi… “. Tôi nghĩ “Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều đã đánh lừa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?”. Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt. Đến tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?… “. Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo. Cô Lài lại khóc “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?”. Vợ tôi bảo “Đừng khóc”. Tôi cáu “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu?”. Vợ tôi bảo “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?”. Tôi bảo “Sát”. Ông Bổng bảo “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?”. Cha tôi bảo “Bùa con khỉ. Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này”. Ông Bổng bảo “Thế là sướng, “đòm” phát là xong”. Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò. X Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh đại úy cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn. Ông Chưởng hỏi cha tôi “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón”. Cha tôi bảo “Được”. Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm”. Cha tôi bảo “Con tôi làm đấy”. Tôi bảo “Đấy là vợ cháu”. Vợ tôi bảo “Cô Lài chứ! ” Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này dầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh “Chả phải”. Cha tôi đùa “Thế thì do mô hình Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi “Thằng Tuân có thư từ gì không?” Kim Chi bảo “Không”. Cha tôi bảo “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa”. Vợ tôi bảo “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết”. Kim Chi ngượng. Tôi bảo “Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật”. Kim Chi khóc “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm. Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan”. Vợ tôi bảo “Tôi còn hai con gái cơ”. Tôi bảo “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?” Cha tôi bảo “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục… Tâm càng lớn, càng nhục”. Vợ tôi bảo “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”. XI Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo “Thơ siêu nhất”. Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?” Tôi lắc đầu. Vợ tôi bảo “Anh già rồi”. Bất giác tôi thoáng rùng mình. Một hôm bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng, ông bảo “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá”. Tôi bảo “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?” Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi “Ông anh ơi, có đi chơi không?” Tôi lắc đầu. Khổng có ý tránh mặt tôi. Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi “Cháu đánh nó nhé?” Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ “Thôi”. Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi? Cha tôi bảo “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình”. Tôi bảo “Không phải, cuộc đời nhiều trò dùa lắm”. Cha tôi bảo “Anh cho là trò đùa à?” Tôi bảo “Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng”. Cha tôi bảo “Sao tôi cứ như lạc loài?”. Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi “Anh đi nhé?” Vợ tôi bảo “Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi”. Vợ tôi òa khóc “Em thật có lỗi với anh, với con”. Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?”. XII Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư viết “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép”. Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi không nghe, ông bảo “Cho vào ba lô”. Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia đá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại gọi cô Lài đến bảo “Cháu lấy chồng đi”. Cô Lài òa khóc “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa”. Cha tôi nghẹn ngào “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?”. Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là diềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi “Ông đi ra trận hả ông?” Cha tôi bảo “ừ”. Cái Vi hỏi “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?” Cha tôi chửi “Mẹ mày! Láo!”. XIII Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi, bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng thích lắm “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao rnột chum”. Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo “Chắc còn nữa”. Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát. Ông Bổng bảo “Thôi chết, tao nhớ ra rồi. Ngày xưa tạo với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao”. Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”. Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuở nào. Ông Bổng bảo “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ”. Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình”. Khổng bảo “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!”. XIV Điện của ông Chưởng “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày” Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy Vợ tôi bảo “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại”. Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình”. Tôi bảo “Không phải thế. Đời người có mệnh”. Ông Chưởng bảo “Cha anh là người đáng trọng”. Tôi hỏi “Theo nghi lễ quân đội hả chú”. Ông Chưởng bảo “Cụ ra trận địa, đòi lên chốt”. Tôi bảo “Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa”. Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người. Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm. Ông bảo “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo “Tại chú quen đấy. ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo “Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù!”. XV Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ. NGUYỄN HUY THIỆP
tướng về hưu nguyễn huy thiệp